News and Events

Một số tiền đề về triết lý giáo dục trong thời đại số

Ngày 12/12, tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Triết lý giáo dục trong thời đại số”. Tại Hội thảo, GS.TS. Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục, Ủy viên Tiểu ban GDPT - Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, nguyên Chủ tịch Hội đồng Đại học Thái Nguyên đã có bài tham luận “Một số tiền đề về triết lý giáo dục trong thời đại số”.

Hội thảo khoa học quốc gia “Triết lý giáo dục trong thời đại số”.

Bài tham luận bàn về những tiền đề để xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam trong thời đại số. Trong bối cảnh VUCA (biến động, bất định, phức tạp, mơ hồ), con người cần phải có bản lĩnh, trí tuệ và sự thích ứng, trong đó triết lý giáo dục đóng vai trò định hướng chiến lược. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy triết lý giáo dục đang có những điều chỉnh để tạo nên thế hệ công dân mới. Singapore coi trọng ngôn ngữ, toán học và đạo đức; Hoa Kỳ đề cao dân chủ và tự do; Hy Lạp gắn giáo dục với phát triển kinh tế; Nhật Bản lấy đạo đức làm trung tâm. Mặc dù có những khác biệt nhưng tất cả đều hướng tới công bằng, đa dạng và sáng tạo. Với Việt Nam, triết lý giáo dục cần được hình thành từ nhiều yếu tố: tư duy nghiên cứu khoa học, truyền thống văn hóa, chủ nghĩa nhân văn, quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận khoa học giáo dục và đặc biệt là môi trường số. Giáo dục là quá trình phát triển nhân cách toàn diện, kết hợp "giáo" và "dục", đặt con người làm trung tâm. Giáo dục mở và xã hội học tập là xu thế tất yếu, đòi hỏi sự thay đổi trong vai trò nhà giáo, chương trình, phương pháp và đánh giá. Từ các nền tảng đó, triết lý giáo dục Việt Nam thời đại số được đề xuất: "Tất cả cho con người, tất cả vì con người, để phát triển toàn diện con người trong môi trường kết nối". Triết lý này nhấn mạnh tính nhân văn, phát triển toàn diện, tôn trọng giá trị và khơi dậy sáng tạo, phù hợp với kỷ nguyên đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

GS.TS. Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục tham luận tại hội thảo.

VUCA là từ viết tắt của Volatility (bất ổn), Uncertainty (không chắc chắn), Complexity (phức tạp) và Ambiguity (mơ hồ). Để xử lý tình huống này, cần có sự linh hoạt, tư duy tích cực và khả năng thích ứng; cần xây dựng tầm nhìn xa, hiểu biết sâu sắc, sự rõ ràng và nhanh nhẹn để vượt qua thách thức. Môi trường luôn biến động nên cần xác định mục tiêu rõ ràng; khi đối diện với sự không chắc chắn, cần có tinh thần can đảm và cầu tiến; trong sự phức tạp, cần tiếp cận vấn đề một cách đơn giản nhưng đa chiều; trước sự mơ hồ, cần phát triển khả năng thích ứng với những biến số thường xuyên thay đổi. Giải pháp chiến lược vẫn nhấn mạnh và đề cao ý chí, quyết tâm, bản lĩnh và trí tuệ của con người. Những phẩm chất này không mới nhưng cần được nâng lên một tầm chất lượng mới, thông qua chiến lược phát triển con người thông minh, khôn ngoan hơn trên cơ sở triết lý giáo dục hiện đại.

Triết lý giáo dục (philosophy of education) là một lĩnh vực triết học ứng dụng. nghiên cứu về các mục tiêu, hình thức, phương pháp và kết quả của giáo dục. Nó bao gồm việc tìm hiểu về mục đích của giáo dục, cách thức tốt nhất để đạt được mục đích đó và những giá trị nên được truyền tải trong quá trình giáo dục. Triết lý giáo dục có thể hiểu là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo, cốt lỗi phản ánh một cách khái quát dưới dạng mệnh đề cô đúc, ngắn gọn về mục đích của giáo dục nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, có tác dụng định hướng hành động cho con người. Triết lý giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu.

Tổng thuật từ các thông tin ở một số nước về triết lý giáo dục cho thấy: Singapore đề cao việc nắm bắt tốt tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ và toán học. Ngoài ra, họ còn nhấn mạnh tới yếu tố đạo đức trong hệ thống giáo dục. Triết lý giáo dục của Hoa Kỳ dựa trên tính dân chủ, tự do, như chính cuộc sống của người dân ở quốc gia này. Triết lý này kế thừa truyền thống giáo dục châu Âu với chủ nghĩa tự do và nguyên tắc dân chủ là trên hết. Hy Lạp đề cao vai trò của giáo dục đối với nền kinh tế của đất nước.Vì thế, triết lý giáo dục của Hy Lạp luôn gắn liền với câu hỏi: "Tại sao cần có triết lý giáo dục? Và cái nó tạo ra là gì?"; Triết lý giáo dục của Nhật Bản đã tập trung từ thời Minh Trị và lấy đạo đức làm trung tâm. Nó được phản ánh theo nhiều cách khác nhau, có tác động tích cực và lâu dài đến toàn xã hội Nhật Bản. Mỗi quốc gia có triết lý giáo dục riêng, với những giá trị và tiêu chuẩn khác nhau, nhưng đều có ba mục tiêu chung là: Hướng đến sự công bằng và bình đẳng; Tôn trọng văn hóa và đa dạng; Khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.

Những yếu tố liên quan đến quá trình lựa chọn triết lý giáo dục Việt Nam

Về nghiên cứu khoa học

Trong công trình "Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại" do GS.TSKH Trần Ngọc Thêm làm chủ biên đã nhận định: "Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế chuyển từ chế độ chỉ huy - bao cấp sang kinh tế thị trường, hệ giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá trình xã hội chủ nghĩa hóa chuyển sang hệ giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự chuyển đổi này đã tạo ra sự đan xen, đối chọi nhau giữa các giá trị văn hóa cũ và mới. Triết lý giáo dục Việt Nam cũng chịu tác động của các yếu tố này dẫn tới sứ mệnh và mục tiêu giáo dục trong thực tế chưa được như kỳ vọng...". Tổng hợp ý kiến một số nhà khoa học Việt Nam bàn về vấn đề này: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, nguyên Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục, cho rằng nguyên tắc cốt lõi của nền giáo dục là: Dân tộc/dân chủ - Nhân văn - Hiện đại/sáng tạo. Đây là nguyên tắc được chắt lọc từ huấn đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hệ thống giáo dục quốc dân, quan hệ thầy trò, tu dưỡng nhân cách... GS. Hồ Ngọc Đại cho rằng, triết lý giáo dục ngày nay là "hợp tác". Đó là quan hệ hợp tác giữa nhà trường - xã hội, nhà trường - gia đình, thầy - trò, thầy - thầy, học trò - học trò. Khi đã hợp tác thì phải theo nguyên tắc thỏa thuận, không ai áp đặt ai. TS. Giáp Văn Dương, Hiệu trưởng của hệ thống trường học Vietschool, bày tỏ quan điểm nên theo đuổi một triết lý, mục đích giản dị hơn là con người tự do. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cho rằng, nhìn chung các nước không tuyên bố rõ ràng về triết lý giáo dục trong luật mà ngoài mục đích, Luật Giáo dục các nước thường đưa ra các điều khoản về các thành tố quan trọng khác của triết lý giáo dục như mục tiêu, nguyên lý, trong đó mục tiêu luôn là thành tố xuất hiện phổ biến nhất...

Từ các ý kiến trên đây có thể nhận thấy những tính từ diễn đạt đặc tính con người trong môi trường sáng tạo, tự do, hợp tác, nhân văn... có giá trị lịch sử, văn hóa, rất Việt Nam và có tính chất hiện đại, cơ bản, có ý nghĩa định hướng đúng trong cách tiếp cận một vấn đề quan trọng nhưng rất khó, đó là triết lý giáo dục Việt Nam thời đại số.

Nhận diện đúng bản chất khái niệm "giáo dục"

Để nhận diện đúng bản chất khái niệm "giáo dục", cần quan tâm tới hai nội hàm bao trùm các hoạt động giáo dục:

(i) Giáo dục là quá trình dẫn con người vượt ra khỏi hiện tại của họ để vươn tới những gì hoàn thiện hơn, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn;

(ii) Giáo dục (theo gốc Hán Việt) là chỉ bảo, dạy dỗ, chăm sóc. Nó bao gồm không chỉ việc dạy học (giáo), mà có cả sự thương yêu quan tâm chăm sóc (dục). Trong bối cảnh mới, nhà giáo đã chuyển từ vai trò "truyền đạt" sang "hướng dẫn" và bối cảnh nào cũng là người có sứ mệnh quyết định đến chất lượng giáo dục con người. Sản phẩm "nhân cách" - con người thứ hai được sinh ra từ con người thứ nhất - con người sinh học thì hình ảnh ngọn cờ "dân trí - nhân lực - nhân tài" muốn thành công thì phải được cắm trên nền "nhân cách" cụ thể.

Về quan điểm tiếp cận nhân văn

Chủ nghĩa nhân văn đặt con người vào trung tâm, coi trọng sự phát triển toàn diện của họ về thể chất, tinh thần và đạo đức. Chủ nghĩa nhân văn ủng hộ sự tự do tư tưởng, cho phép mọi người tự do lựa chọn niềm tin và quan điểm của mình. Chủ nghĩa nhân văn khuyến khích mọi người sống có đạo đức, có trách nhiệm với cộng đồng và môi trường xung quanh. Chủ nghĩa nhân văn được coi là tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như: trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn bao hàm cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và nhân loại.

Về quan điểm giáo dục của Đảng

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: "Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới... Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên". Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia "yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số..." với mục tiêu con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển trong kỷ nguyên mới.

Về lý luận khoa học giáo dục

Xác định giáo dục là chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người cùng với yếu tố di truyền làm nền tảng; yếu tố môi trường là quyết định; hoạt động cá nhân là quyết định trực tiếp. "Giáo dục mở" và "xã hội học tập" là những giá trị lớn của nền văn minh trong thời đại số, giáo viên sẽ không phải là người duy nhất trong lớp học; nội dung - chương trình không duy nhất là một sách giáo khoa hay giáo trình; phương thức giáo dục không duy nhất chỉ ở trong lớp học; lớp học không chỉ là một không gian cố định; đánh giá giáo dục không duy nhất chỉ là điểm số. Cấu trúc của quá trình giáo dục đã có sự chuyển đổi mở hơn, rộng hơn và phức tạp hơn, nhất là với sự bùng nổ của công nghệ và sự thay đổi nhanh về đặc điểm tâm lý của con người.

Tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển toàn diện con người

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng để chúng ta xây dựng nền giáo dục dân chủ, khai phóng, sáng tạo, tiến bộ, vì con người. Trên nền tảng tư tưởng tiến bộ của nhân loại và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học giáo dục đã có những đề xuất, đóng góp vào việc hoàn thiện Luật Giáo dục (2019), tại Điều 2 đã xác định lại mục tiêu giáo dục: "Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam...". Mục tiêu này đã được tiếp thu từ nền tảng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh viết 80 năm trước trong "Thư gửi cho học sinh" (1945): "...Một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Đây là định hướng rộng về phương thức, tạo điều kiện, xác định rõ mục tiêu "phát triển toàn diện con người". Đây là tư tưởng giáo dục khai phóng, tự do và dân chủ, khác với "mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện" trong Luật Giáo dục 2005 chỉ thể hiện sự kỳ vọng không dễ thực hiện nếu chỉ trong phạm vi giáo dục nhà trường (đào tạo). Mục tiêu giáo dục mới (2019) đã tiếp cận những giá trị tiến bộ của nhân loại, là nền tảng cho chiến lược phát triển nguồn lực trong thời đại mới, kỷ nguyên đổi mới sáng tạo.

Mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện con người chính là đổi mới căn bản, phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Nội hàm giáo dục ở đây (mục tiêu giáo dục) được hiểu rộng hơn, hàm chứa tư tưởng tạo điều kiện (tự học) để con người phát triển hơn là phạm vi hẹp trong chương trình đào tạo của nhà trường. Nền tảng tư tưởng phát triển toàn diện con người đã tạo điều kiện để xây dựng một nền giáo dục mở, xây dựng một xã hội học tập.

Tiếp cận môi trường số

Môi trường là thành tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người, đặc biệt là quan hệ giữa con người với môi trường, với sự thúc đẩy động cơ bên trong của chủ thể khiến cho quá trình hình thành nhân cách phải do tự hoạt động cá nhân quyết định trực tiếp. Vì vậy, trong xã hội số, cần quan tâm đặc biệt đến việc khắc phục bốn hạn chế sau đây:

(i) Nhận diện chưa đầy đủ về "công nghệ" (khái niệm công nghệ gồm nguồn lực con người, nguồn lực thông tin, nguồn lực tổ chức và nguồn lực kỹ thuật) nhưng có hiện tượng đồng nhất "công nghệ" với "kỹ thuật" (vốn chỉ là một trong bốn thành tố cấu thành;

(ii) Chống "tác dụng phụ" của xã hội số bởi hiện tượng "đi tắt" trong quá trình nhận thức, từ "biết" đến "đánh giá" bỏ qua sáu bước quy luật nhận thức của Bloom;

(iii) Môi trường kết nối còn bị xem nhẹ bởi tính thực dụng;

(iv) Xuất hiện xu hướng "Tắt não, bật ChatGPT".

Phát biểu về triết lý giáo dục Việt Nam trong thời đại số

Từ các yếu tố liên quan trên đây, trong môi trường VUCA, lại cần nhận diện đúng về giáo dục, giá trị nhân văn, lịch sử và văn hóa, dưới ánh sáng của quan điểm giáo dục của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ quy luật phát triển con người và từ thực tiễn đất nước trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo, với đặc điểm của xã hội số, có thể phát biểu về triết lý giáo dục như sau:

"Tất cả cho con người, tất cả vì con người, để phát triển toàn diện con người trong môi trường kết nối".

Biểu đạt triết lý giáo dục trên đây thể hiện tất cả cho, vì con người (khái niệm con người được nhắc đến ba lần) với hàm ý: cho, vì, để... con người được phát triển toàn diện. Tư tưởng nhân văn bao trùm, để thực thi mục tiêu Luật Giáo dục, trong bối cảnh môi trường kết nối của thời đại số với đích cuối cùng là tôn trọng giá trị của con người, khơi dậy và phát huy năng lực sáng tạo, hệ giá trị nhân văn của con người Việt Nam./.

GS.TS. Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư ngành Khoa học Giáo dục


Statistical access

In month: 20.786
Year 2025: 683.475
Total number of visits: 788.730
Zalo